Hoạt động luật sư “ngổn ngang tơ vò“ trước Dự án Luật sửa đổi một số điều của Luật luật sư?

Thứ ba - 28/08/2012 04:38
Bên cạnh những bất cập vẫn tồn tại trong pháp luật liên quan tới hoạt động của Luật sư, nhiều Luật sư cảm nhận hoạt động nghề nghiệp của họ đang ngổn ngang “trăm mối tơ vò” khi dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sư duy trì quy định cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư.

Thực tiễn giữa Luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) thường không mặn mà với nhau do đặc thù nghề nghiệp: Cùng một đối tượng là bị can, bị cáo thì một bên gỡ tội, còn một bên buộc tội. Tìm kiếm tiếng nói chung giữa Luật sư với cơ quan THTT là điều không dễ.

Vượt qua những xung đột thường tình về quan điểm pháp lý, nhất thiết phải có sự phân định rạch ròi chức năng, quyền hạn, biện pháp chế tài đối với người, cơ quan, tổ chức vi phạm quy định trong hoạt động tư pháp, cải cách, hoàn thiện pháp luật về tố tụng, sớm chấm dứt tình trạng “lấn sân”, cản trở hoạt động của Luật sư từ người, cơ quan THTT.

Nói về quy định pháp luật, Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) đầu tiên của chúng ta ra đời năm 1988 đã minh thị: Luật sư được tiếp xúc bị can ngay từ giai đoạn vụ án được khởi tố, được hỏi bị can nếu được Điều tra viên (ĐTV) đồng ý. Khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 1988 được sửa đổi bổ sung ngày 09/6/2000 quy định: Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong những giai đoạn điều tra khác. Còn theo điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 thì: Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu ĐTV đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác...

Cho tới nay vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập cả về quy định pháp luật lẫn thực tiễn hoạt động hành nghề đang diễn ra xung đột pháp lý giữa Luật sư và các cơ quan THTT. Đối chiếu giữa BLTTHS năm 1988 với BLTTHS năm 2003, nghề bào chữa được “nâng cấp”, Luật sư được “coi trọng” hơn: Từ chỗ được hỏi bị can nếu ĐTV đồng ý, thì người bào chữa được hỏi cả người bị tạm giữ, bị can. Người bào chữa được quyền dự cung và hỏi người bị tạm giữ thay vì chỉ được dự cung và hỏi bị can. Tuy nhiên, muốn biến quyền năng theo luật định thành hiện thực, người bào chữa gặp không ít khó khăn: 

Thứ nhất: Người bào chữa muốn hỏi thân chủ (người nhờ Luật sư bào chữa cho họ) phải được sự đồng ý của điều tra viên. Nói khác, phải được phép của ĐTV thì người bào chữa mới được hỏi người bị tạm giữ, bị can.

Thứ hai: Nội dung người bào chữa được hỏi, không được hỏi bị can?.

Thứ ba: Trường hợp ĐTV không đồng ý để Luật sư hỏi người bị tạm giữ, bị can, ĐTV có phải nói rõ lý do vì sao không đồng ý để người bào chữa hỏi người bị tạm giữ, bị can hay không? Có lập biên bản ghi lại việc ĐTV không đồng ý để Luật sư hỏi bị can không?.

Chính vì quy định trong pháp luật tố tụng còn lỏng lẻo, dẫn tới nhận thức chủ quan, tạo tiền đề cho ĐTV từ chối Luật sư hỏi bị can mà không cần cho biết lý do. Gần đây Bộ Công an đơn phương ban hành Thông tư số 70 ngày 10 tháng 10 năm 2011 quy định khá thông thoáng, tạo thuận lợi trong hoạt động nghề nghiệp của Luật sư khi tham gia các vụ án hình sự ngay từ thời điểm khởi tố vụ án, khởi tố bị can (việc cấp giấy chứng nhận bào chữa, dự cung bị can, thông báo những quyết định tố tụng cho luật sư).

Có thể nói Thông tư số 70 là tín hiệu lạc quan, nếu được thực thi đúng đắn sẽ trở thành chiếc đũa thần để luật sư hành nghề được thuận lợi, tạo niềm tin đối với thân chủ khi biết Luật sư làm được việc cho họ.

Tuy nhiên, thực tế không đơn giản, giữa luật và lệ còn có khoảng cách do lâu nay cơ quan  Cảnh sát Điều tra làm theo lối mòn, có thói quen từ chối khéo Luật sư tham gia vụ án hình sự ngay từ khi khởi tố với một ngàn lẻ một lý do có vẻ hợp lý: Phải có ý kiến của thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát Điều tra, rất tiếc thủ trưởng bận công tác; bản thân ĐTV chưa sắp xếp lịch làm việc với bị can được; bị can đang bị ốm...

Điều này được phản ảnh qua lời phát biểu mới đây của Phó Giám đốc Công an TP.HCM Phan Anh Minh: Quy định về cấp Giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư hiện mới là đơn phương của Bộ Công an. Cần nghiên cứu ban hành một Thông tư liên ngành hoặc một quy chế liên ngành về hiệu lực của giấy chứng nhận bào chữa.

Bộ Công an chủ động quy định việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư mà không thực hiện nghiêm túc thì liệu một văn bản liên ngành có ràng buộc cơ quan Công an thực thi hữu hiệu không?.

Trên đường “phụ tá công lý” chúng ta vấp phải “chông gai” do giữa Luật và lệ còn có khoảng cách. Đã là bình đẳng giữa người THTT (ĐTV, Kiểm sát viên, Thẩm phán) với Luật sư thì hà cớ gì lại quy định “nếu được ĐTV đồng ý”, đã đến lúc xóa bỏ cụm từ “nếu được sự đồng ý của ĐTV” ra khỏi Điều 58 BLTTHS.

Mới đây, Ủy ban Tư pháp Quốc Hội nêu quan điểm: “Duy trì quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư trong tố tụng hình sự là cần thiết, đặc biệt là đối với các vụ án về xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm có tổ chức, các tội phạm về ma túy...”.

Theo chúng tôi, chỉ nên giữ lại quy định: Cơ quan THTT cấp giấy chứng nhận bào chữa cho Luật sư một số vụ án đặc biệt như xâm phạm an ninh quốc gia; còn các vụ án khác Luật sư được tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra đến khi xét xử mà không cần phải có giấy chứng nhận bào chữa.

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền thời hội nhập, những nền tư pháp có được nhìn nhận là cấp tiến, phù hợp xu thế thời đại khi quyền bào chữa của Luật sư được tôn trọng đúng mực. Nguyên tắc: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật là chế định “thiêng liêng” phải được luật hóa trong hoạt động tố tụng của Luật sư. 

Theo Pháp luật Việt Nam

Tác giả bài viết: Trần Công Ly Tao

Nguồn tin: duthaoonline.quochoi.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Văn bản mới

Thông tư Số: 01/2024/TT-BLĐTBXH

THÔNG TƯ QUY ĐỊNH QUY TRÌNH XÂY DỰNG, THẨM ĐỊNH VÀ BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO; TỔ CHỨC BIÊN SOẠN, LỰA CHỌN, THẨM ĐỊNH, DUYỆT VÀ SỬ DỤNG GIÁO TRÌNH TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP, TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG

Thời gian đăng: 28/02/2024

Nghị định Số: 97/2023/NĐ-CP

NGHỊ ĐỊNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 81/2021/NĐ-CP NGÀY 27 THÁNG 8 NĂM 2021 CỦA CHÍNH PHỦ

Thời gian đăng: 28/02/2024

Nghị Quyết số: 13/2023/NQ-HĐND

Nghị Quyết quy định chức danh, mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn, ở ấp, khu vực và và mức hỗ trợ đối với người trực tiếp tham gia hoạt động ở ấp, khu vực trên địa bàn tỉnh Hậu Giang

Thời gian đăng: 30/10/2023

Quyết định số: 792/QĐ-TTg

Quyết định ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Tư pháp

Thời gian đăng: 07/01/2024

Nghị định số: 33/2023/NĐ-CP

NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ VÀ NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ, Ở THÔN, TỔ DÂN PHỐ

Thời gian đăng: 18/06/2023

Chỉ thị Số 21-CT/TW

CHỈ THỊ CỦA BAN BÍ THƯ về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Thời gian đăng: 29/02/2024

Quyết định số: 73/QĐ-TTg

Quyết định phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Thời gian đăng: 19/02/2023

Quyết định số: 01/QĐ-TTg

Quyết định phê duyệt Đề án "Hỗ trợ hợp tác xã do phụ nữ tham gia quản lý, tạo việc làm cho lao động nữ đến năm 2030"

Thời gian đăng: 18/02/2023

Thông tư số: 28/2022/TT-BLĐTBXH

Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng và chế độ làm việc của nhà giáo giáo dục nghề nghiệp

Thời gian đăng: 19/02/2023

Nghị định số: 98/2022/NĐ-CP

Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp

Thời gian đăng: 18/02/2023

Nghị quyết số: 27-NQ/TW

NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA XIII VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Thời gian đăng: 18/06/2023

GCN số: 15a/2021/GCNĐKBS-TCGDNN

Giấy chứng nhận đăng ký bổ sung hoạt động giáo dục nghề nghiệp

Thời gian đăng: 07/01/2024

Thông tư số: 01/2022/TT-BTP

THÔNG TƯ QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH SỐ 87/2020/NĐ-CP NGÀY 28 THÁNG 7 NĂM 2020 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH VỀ CƠ SỞ DỮ LIỆU HỘ TỊCH ĐIỆN TỬ, ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH TRỰC TUYẾN

Thời gian đăng: 18/06/2023

Nghị định Số: 81/2021/NĐ-CP

NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH VỀ CƠ CHẾ THU, QUẢN LÝ HỌC PHÍ ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC THUỘC HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VÀ CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM HỌC PHÍ, HỖ TRỢ CHI PHÍ HỌC TẬP; GIÁ DỊCH VỤ TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO

Thời gian đăng: 28/02/2024

Thông tư số: 2/2021/TT-BNV

THÔNG TƯ Quy định mã số, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành hành chính và công chức chuyên ngành văn thư

Thời gian đăng: 18/06/2023

GCN số: 15/2021/GCNĐKHĐ-TCGDNN

Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp

Thời gian đăng: 07/01/2024

Nghị định số: 07/2021/NĐ-CP

NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHUẨN NGHÈO ĐA CHIỀU GIAI ĐOẠN 2021 - 2025

Thời gian đăng: 18/06/2023

Quyết định số: 863/QĐ-LĐTBXH

Quyết định về việc thành lập Trường Cao đẳng Luật miền Nam

Thời gian đăng: 07/01/2024

Nghị định số: 30/2020/NĐ-CP

Nghị định về công tác văn thư

Thời gian đăng: 19/02/2023

Luật số: 24/2018/QH14

LUẬT AN NINH MẠNG

Thời gian đăng: 28/02/2024

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây