Thực ra, quyền từ chối làm chứng là một dạng quyền đặc thù, nhằm đặt quyền lợi thống nhất của những người thân thích trong gia đình và trách nhiệm của người bào chữa trước những bí mật thông tin của khách hàng mà mình biết được trong quá trình giúp đỡ về mặt pháp lý cho họ.
Trong kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS mới đây, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã đề nghị bổ sung một điều về “Quyền từ chối làm chứng và cung cấp thông tin”. Cụ thể: “Người thân thích của người bị tạm giữ, bị can có quyền từ chối không cung cấp chứng cứ bất lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Người bào chữa của người bị tạm giữ, bị can có quyền từ chối cung cấp chứng cứ bất lợi cho người bị tạm giữ, bị can và bí mật thông tin có được trong quá trình giúp đỡ họ về mặt pháp lý”.
Trong tố tụng, lời khai của người làm chứng luôn được nhìn nhận là nguồn chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Có thể nói là trong tương lai dù khoa học kỹ thuật có phát triển mạnh mẽ, thay thế được hoạt động của con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng trong tố tụng, lời khai người làm chứng vẫn có vai trò to lớn, vẫn là một trong những công cụ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Người làm chứng cũng chính là chủ thể của chức năng hỗ trợ tư pháp, nhưng theo các qui định pháp luật hiện hành, người làm chứng dường như chưa được “đối xử công bằng” so với vai trò của họ. Bộ luật TTHS năm 2003 qui định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, một người khi được xác định là “người làm chứng” thì không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải trình diện, phải khai báo và khai báo trung thực nếu không muốn bị dẫn giải hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự.
Khi tham gia tố tụng, người làm chứng phải trả lời các câu hỏi mà cơ quan điều tra quan tâm, kể cả lời khai của họ có thể chống lại chính họ hoặc người thân của họ. Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã không quy định hành vi không tố giác tội phạm của những người là ông bà, cha, mẹ, con, cháu, anh, chị em ruột, vợ hoặc chồng của kẻ phạm tội là hành vi tội phạm (trừ trường hợp không tố giác tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng). Quy định này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với khía cạnh đạo đức trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Nhà nước đã đặt lợi ích về đấu tranh chống tội phạm “thấp” hơn lợi ích cá nhân để phù hợp với truyền thống đạo đức và thực tiễn các mối quan hệ xã hội.
Thế nhưng, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về nghĩa vụ của người làm chứng đã không thể hiện được tư tưởng nhân văn này, không có sự “miễn trừ” làm chứng cho những người thân thích, ruột thịt. Lẽ thường, không ai muốn người thân thích, ruột thịt của mình – dẫu vi phạm pháp luật bị trừng phạt, hoặc nếu đã “rõ ràng” sẽ bị trừng phạt thì cũng chỉ muốn ở mức “nhẹ” nhất có thể. Điều này cũng lý giải vì sao trong các vụ án có người thân thích, ruột thịt của bị can, bị cáo làm chứng thì lời khai của người làm chứng thường bao che, không thống nhất, và dễ thay đổi khi họ phát hiện ra lời khai của mình lại gây bất lợi cho chính bản thân hoặc người thân của họ.
Tương tự, quyền từ chối làm chứng hay từ chối tiết lộ bí mật thông tin của người bào chữa mà người bào chữa biết được khi giúp đỡ cho khách hàng cũng chưa được Bộ luật TTHS “miễn trừ”, dù điều này đã được quy định tại Luật Luật sư (LS). Theo Luật LS, một trong những hành vi bị cấm đối với LS khi hành nghề là “tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Bên cạnh đó, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp LS cũng qui định “LS có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật. LS có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Mặc dù chưa có một giải thích chính thức về khái niệm “bí mật thông tin” mà LS phải giữ, nhưng có thể được hiểu là những bí mật nghề nghiệp có liên quan đến vụ việc LS đảm nhận, bao gồm bí mật điều tra, bí mật công tác, bí mật về quan hệ nhân thân, đời tư, quan hệ tài sản, tình hình tài chính, bí quyết kinh doanh… hoặc những thông tin khác của khách hàng mà họ không muốn bị tiết lộ. Như vậy, việc giữ bí mật thông tin cho khách hàng ngoài vấn đề đạo đức nghề nghiệp còn là trách nhiệm pháp lý của LS.
Vì vậy, Bộ luật TTHS cần bổ sung qui định về miễn trừ làm chứng nếu lời khai gây bất lợi cho người thân của người làm chứng, cũng như qui định rõ ràng về việc LS có quyền từ chối cung cấp chứng cứ bất lợi và bí mật thông tin của thân chủ mà họ có được. Theo Liên đoàn LS Việt Nam, cần qui định cụ thể vấn đề này để không buộc người bào chữa phải làm chứng hoặc tiết lộ bí mật gây bất lợi cho khách hàng của mình, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh trách nhiệm tố giác tội phạm nếu người bào chữa phát hiện hoặc biết được.